Dự án Luật Đất đai sửa đổi: Bồi thường thu hồi đất phải công bằng, minh bạch, đúng pháp luật
Tiếp tục Chương trình Phiên họp thứ 23, chiều 11/5, tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật Đất đai (sửa đổi).
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo thẩm tra |
Thẩm tra dự án Luật Đất đai (sửa đổi) đã được chỉnh lý trên cơ sở tiếp thu, giải trình ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 và ý kiến Nhân dân, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, ngày 10/5/2023, Ủy ban Kinh tế (UBKT) đã có Báo cáo đầy đủ số 1848/BC-UBKT15 thẩm tra dự án Luật Đất đai (sửa đổi) theo Tờ trình số 136/TTr-CP ngày 25/4/2023 của Chính phủ.
Theo đó, về vấn đề xin ý kiến theo Tờ trình số 136/TTr-CP, UBKT đề nghị rà soát kỹ lưỡng, bám sát tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW và quan điểm đã nêu tại Thông báo số 1493/TB-TTKQH và Thông báo số 2083/TB-TTKQH, nếu là những nội dung chưa được tổng kết, chưa được đề cập trong Nghị quyết số 18-NQ/TW, nay thực tiễn phát sinh đòi hỏi có cơ chế xử lý, Nhân dân có ý kiến đề xuất cụ thể, quá trình nghiên cứu, đánh giá tác động cho thấy cơ sở hợp lý, Cơ quan soạn thảo nhận định cần thiết bổ sung quy định thì đề nghị báo cáo Chính phủ, Ban Cán sự đảng Chính phủ báo cáo cấp có thẩm quyền để cho ý kiến, làm cơ sở hoàn thiện dự án Luật trước khi trình Quốc hội. Nếu là những nội dung đã được tổng kết nhưng chưa đạt được sự đồng thuận, còn có ý kiến khác nhau, chưa đủ chín, đủ rõ về cơ sở lý luận và thực tiễn, không được kết luận tại Nghị quyết số 18-NQ/TW thì đề nghị không đưa vào dự thảo Luật.
Thẩm tra một số nội dung cụ thể, cơ quan thẩm tra đề nghị ban soạn thảo cân nhắc về áp dụng pháp luật (Điều 4); bổ sung, làm rõ quy định về quyền lựa chọn hình thức giao đất, cho thuê đất của đơn vị sự nghiệp công lập (khoản 3 Điều 32, Điều 34 và Điều 35), bảo đảm phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập.
Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất (Chương V), UBKT đề nghị chỉnh sửa quy định tại khoản 9 Điều 56 theo hướng chỉ quy định nguyên tắc cho phép các quy hoạch có thể lập đồng thời như Nghị quyết số 61/2022/QH15; đồng thời, bổ sung nguyên tắc quy hoạch cao hơn phải được phê duyệt, quyết định trước quy hoạch thấp hơn để bảo đảm phù hợp với chỉ tiêu do quy hoạch sử dụng đất cấp trên phân bổ.
Về thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 75), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cho biết có 2 loại ý kiến: Loại ý kiến thứ nhất: Cơ bản tán thành quy định tại dự thảo Luật như Chính phủ đã trình; đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện, bảo đảm quy định đầy đủ, rõ ràng. Loại ý kiến thứ hai: Cân nhắc cách quy định theo hướng liệt kê các trường hợp thu hồi đất như dự thảo Luật, chưa bảo đảm tinh thần của Nghị quyết số 18-NQ/TW về việc quy định điều kiện, tiêu chí cụ thể thu hồi đất để phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; khó bảo đảm đầy đủ các trường hợp, nhất là các trường hợp có thể phát sinh trong tương lai. Thường trực UBKT cơ bản tán thành loại ý kiến thứ hai và xin báo cáo UBTVQH xem xét, cho ý kiến.
Đối với quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Chương XII), UBKT đề nghị nghiên cứu bảo đảm việc bồi thường bằng đất khác mục đích sử dụng với loại đất thu hồi phải có giá trị tương đương với đất thu hồi để bảo đảm quyền lợi của người có đất thu hồi. Trong xác định mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất thu hồi cần tính toán để điều tiết, phân phối phần địa tô chênh lệch, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người bị thu hồi đất và nhà đầu tư. Tiếp tục rà soát để quy định thống nhất theo hướng “bồi thường” bao gồm các khoản Nhà nước phải chi trả để bù đắp cho thiệt hại cho người sử dụng đất khi bị thu hồi đất; “hỗ trợ” là những khoản mà Nhà nước chi trả thêm để hỗ trợ thêm cho người bị thu hồi đất.
Thẩm tra quy định về phát triển quỹ đất (Chương VIII), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, đây là Chương mới của dự thảo Luật, đề nghị nghiên cứu kỹ lưỡng, đánh giá tác động đầy đủ, sâu sắc, toàn diện về định hướng chính sách về phát triển quỹ đất bảo đảm tính hợp lý, tính khả thi và nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế – xã hội. Hồ sơ dự án Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 đã có Báo cáo đánh giá tác động nhưng chưa cụ thể.
Thẩm tra quy định về giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất và các trường hợp không đấu giá quyền sử dụng đất (Mục 2 Chương IX), UBKT đề nghị nghiên cứu, xem xét trong tổng thể, rà soát kỹ lưỡng các quy định có liên quan tại Điều 75, Điều 108, Điều 121, Điều 122 và Điều 123 dự thảo Luật để quy định rõ ràng, cụ thể các tiêu chí, trường hợp thực hiện đấu giá, đấu thầu, không đấu giá, không đấu thầu và thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất, bảo đảm đồng bộ với pháp luật về đầu tư và pháp luật khác có liên quan đến sử dụng đất.
Rà soát kỹ lưỡng Điều 120 dự thảo Luật để hạn chế tối đa các trường hợp không đấu giá, không đấu thầu quyền sử dụng đất; bảo đảm phù hợp với quan điểm tại Nghị quyết số 18-NQ/TW. Rà soát, làm rõ các tiêu chí, điều kiện thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất tại Điều 121; nghiên cứu quy định theo hướng: thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất đối với đất thuộc Quỹ đất để thực hiện các dự án phù hợp với quy hoạch sử dụng đất. Quy định rõ về phương thức giao đất, cho thuê đất trong trường hợp: dự án nhà ở thương mại có quy mô dưới 10 ha tại khu vực nông thôn và dưới 05 ha tại khu vực đô thị…
Đối với quy định về tài chính về đất đai, giá đất (Chương XI), trong đó các khoản thu ngân sách từ đất đai, UBKT đề nghị Chính phủ báo cáo về lộ trình rà soát, tổng kết thi hành các luật về thuế sử dụng đất để trình Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung, bảo đảm thể chế hóa đúng và đầy đủ các nhiệm vụ, giải pháp nêu tại Nghị quyết số 18-NQ/TW và đồng bộ với quy định tại dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi).
Ban soạn thảo rà soát pháp luật có liên quan đến trình tự xác định giá đất cụ thể như: đấu thầu chọn tư vấn, thẩm định kết quả… để bảo đảm tính khả thi của quy định tại khoản 4 Điều 151 về ban hành quyết định giá đất trong thời gian không quá 180 ngày kể từ thời điểm xác định giá đất, đồng thời bảo đảm chất lượng của kết quả định giá đất; nghiên cứu bổ sung quy định về xử lý trong trường vi phạm.
Về miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, đề nghị quy định cụ thể tại Điều 153, tách bạch các trường hợp được “miễn” với trường hợp được “giảm”. Cân nhắc kỹ lưỡng quy định tại điểm k khoản 1 Điều 153 về miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với trường hợp sử dụng đất không phải đất quốc phòng, an ninh cho mục đích quốc phòng, an ninh của doanh nghiệp quân đội, công an; sử dụng đất để xây dựng nhà ở cho lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm tính công bằng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh giữa các doanh nghiệp.
Cơ quan soạn thảo cho rằng, quy định tại Điều 154 về phương pháp định giá đất theo nguyên tắc thị trường chưa rõ ràng, chưa bảo đảm thể chế đầy đủ, toàn diện yêu cầu của Nghị quyết số 18-NQ/TW về có chính sách phù hợp với từng đối tượng, loại hình sử dụng đất để khơi dậy tiềm năng, phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai, chính sách tài chính về đất đai phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư, đất đai là nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Về bảng giá đất, có ý kiến đề nghị quy định rõ ràng, cụ thể trong dự thảo Luật về các phương pháp định giá đất và trường hợp áp dụng cụ thể để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong định giá đất. Có ý kiến đề nghị thu hẹp các phương pháp định giá đất, cân nhắc ưu tiên sử dụng phương pháp hệ số điều chỉnh.
Về Hội đồng thẩm định giá đất, đề nghị xem xét lại thành phần Hội đồng để nâng cao tính chuyên môn, bảo đảm tính độc lập giữa cơ quan định giá, cơ quan thẩm định giá và cơ quan quyết định giá đất, bảo đảm thể chế hóa đúng tinh thần của Nghị quyết 18-NQ/TW…
Nhật Quang
FILI